Nguyễn Đình Đăng
Sinh thời Mark Rothko (1903 – 1970) từng tuyên bố từ bỏ truyền thống ngàn năm của hội họa để vươn tới sự hoành tráng tâm linh trong nghệ thuật bằng những hình chữ nhật nhạt nhòa lơ lửng trên nền màu tương phản. Trớ trêu thay, hai bộ tranh tường hoành tráng nhất của danh hoạ này đều xuống cấp ngay trong khi ông còn sống. Trong số tranh đó, bộ 5 bức sơn dầu trên canvas cỡ lớn Rothko vẽ để trang trí phòng ăn Đại học Harvard đã bạc màu ngay sau khi được treo lên vào năm 1963, nghiêm trọng đến nỗi tới năm 1979 đại học này đã buộc phải cất bộ tranh vào kho.
Nguyên nhân bạc màu đơn giản đến mức ngớ ngẩn. Rothko đã dùng màu đỏ lithol (PR49), giá rẻ, được chế từ phẩm nhuộm, thường được dùng trong in ấn, và rất phổ biến tại Hoa Kỳ những năm 1950 – 1960. Song nhược điểm lớn nhất của đỏ lithol là độ chịu sáng rất kém, vì thế không thích hợp cho hội hoạ, tuy một số nhà sản xuất vẫn nhét nó vào màu hạng sinh viên. Cho dù thông tin về tính chịu sáng kém của đỏ lithol đã được cảnh báo từ những năm 1950, Rothko vẫn dùng màu này trong bộ 40 tranh sơn dầu vẽ trong 3 tháng vào năm 1958 để treo tại nhà hàng Bốn Mùa của công ty Seagrams và bộ tranh tường vẽ cho Đại học Harvard. Tất cả các bức tranh này đều phai màu nhanh, song thảm hại nhất là 5 bức tranh tại Harvard vì cường độ ánh sáng cao trong phòng ăn nơi bộ tranh từng được treo. Các nhà phục chế chịu chết không làm thế nào chữa lại được 5 bức tranh này nữa [1].
Sự cố với bộ tranh Harvard của Rothko cùng nhiều ví dụ khác từ cổ chí kim [2] là những minh chứng rõ ràng rằng, trong hội hoạ, chỉ tài năng và nhiệt huyết thôi thì vẫn chưa đủ. Để tác phẩm của mình trường tồn cho người đời nay và đời sau thưởng ngoạn hoạ sĩ còn cần kiến thức về chất liệu nữa.
Cho dù không thể vẽ đường cho bất kỳ ai trở thành Mark Rothko, bài này được viết không ngoài mục đích giúp các hoạ sĩ và sinh viên mỹ thuật có thêm hiểu biết về màu sơn dầu, ít nhất cũng giảm thiểu khả năng xảy ra những sự cố đáng tiếc như vừa kể trên.
*
1) Bột màu
Đa số mầu sơn dầu được nghiền từ bột màu (hay hạt sắc tố,pigment). Một số ít được chế từ phẩm nhuộm (dye).
Bột màu là các hạt riêng biệt từ chất vô cơ hoặc hữu cơ, dính với nhau thành các kết tập (aggregate) tạo nên các kết tụ(agglomerate). Các chất vô cơ trong bột màu thường là các khoáng chất chứa oxide hay sulfide của các nguyên tố kim loại hay đất hiếm. Hầu hết bột màu hữu cơ chứa các chuỗi carbon trong các liên kết với hy-đrô (hydrogen), ni-tơ (nitrogen), và ô-xy (oxygen). Dung môi phá vỡ các kết tụ nhưng chỉ phân tán các hạt bột màu chứ không hòa tan chúng, tạo nên thể vẩn (suspension). Nếu cấu trúc tinh thể của bột màu bị dung môi phá vỡ, tức bột màu bị hòa tan, sẽ xảy ra hiến tượng nhòe màu hay màu bị thôi.
Phẩm nhuộm bị chất kết dính và dung môi làm mất cấu trúc tinh thể tức bị hoà tan, tạo nên dung dịch (solution), có độ trong không thay đổi.
Người ta cũng tạo ra bột màu từ phẩm nhuộm bằng cách cho phẩm nhuộm kết tủa trong muối kim loại. Những hạt bột màu từ phẩm nhuộm như vậy được gọi là bột màu lake hay bột phầm nhuộm.
Bột màu vô cơ và hữu cơ được chế từ nguồn có sẵn trong tự nhiên hoặc bằng phương pháp tổng hợp nhân tạo. Như vậy, tùy theo nguồn gốc và phương pháp chế tạo, có thể phân ra 4 loại bột màu sau:
i) Bột màu vô cơ tự nhiên được chế từ khoáng chất tự nhiên, ngày nay ít được sản xuất vì giá thành cao và khó tạo được màu nhất quán.
ii) Bột màu vô cơ nhân tạo được chế bằng cách dùng công nghệ để liên kết các hóa chất, chiếm khoảng 80% bột màu được sản xuất trên toàn thế giới.
iii) Bột màu hữu cơ tự nhiên được chiết từ động thực vật, ngày nay hầu như không được chế tạo nữa vì độ chịu sáng kém.
iv) Bột màu hữu cơ nhân tạo được chế từ các sản phẩm tinh chế dầu mỏ [3].
Bảng màu của hoạ sĩ ngày hôm nay phong phú hơn thời Phục Hưng, Baroque rất nhiều. Sơn dầu hạng cho hoạ sĩ chuyên nghiệp của các hãng nổi tiếng đều có trên 100 sắc. Old Holland Classic và Holbein Artists có tới trên 160 sắc.
Phần lớn màu sơn dầu này nay được nghiền từ bột màu tổng hợp nhân tạo. Màu tổng hợp nhân tạo hiện đại mịn hơn màu thời xưa nhiều lần. Ví dụ hạt bột màu từ khoáng chất thời xưa có kích thước trung bình vào khoảng 100 micrometre (µm, 1 µm bằng 1 phần triệu m), tức gấp đôi kích thước nhỏ nhất mắt người có thể nhìn thấy mà không cần kính phóng đại. Hạt bột màu vô cơ, tức không chứa carbon, được tổng hợp nhân tạo có kích thước khoảng 0.5 – 1µm, còn kích thước hạt màu hữu cơ tổng hợp là khoảng 0.01 – 0.1µm, tức bột màu tổng hợp nhỏ hơn hạt bột màu khoáng chất ít nhất là 100 lần (chỉ bằng một nửa kích thước hồng cầu), thậm chí nhỏ hơn siêu vi trùng (kích thước trung bình 0.1µm). Trắng titanium có kích thước hạt bột màu khoảng 0.22 – 0.24 µm [4]. Bột màu như vậy thoát ra khỏi lọ trông tựa như đám khói.
Kích thước hạt bột màu ảnh hưởng tới độ trong – đục, và độ bền trong kết dính của các hạt bột màu. Màu nhân tạo thường bền hơn, có độ chịu sáng cao hơn (đặc biệt là các màu tổng hợp vô cơ), độ bão hoà lớn hơn, ít độc hơn và rẻ hơn màu thời xưa.
2) Các thông tin in trên tube màu
Mỗi sắc màu được sản xuất bày bán ở hiệu có một tên riêng. Nhưng chỉ cái tên của màu của các hãng thường mù mờ, không cho biết màu được nghiền từ những bột màu nào. Trong khi đó màu đắt hay rẻ, đẹp hay xấu, bền hay không, là do chất lượng bột màu quyết định.
Trên tube màu do các hãng nổi tiếng sản xuất thường có ghi các thông tin sau:
i) Tên hãng sản xuất, ví dụ “Royal Talens”, và tên hạng màu, ví dụ “Rembrandt”;
ii) Tên màu, ví dụ cadmium red (đỏ cadmium);
iii) Độ trong / đục. Màu trong: hình vuông hoặc tròn trắng, màu đục: hình vuông hoặc tròn đen, màu bán đục: hình vuông hoặc tròn nửa trắng nửa đen, màu bán trong: hình vuông hoặc tròn trắng có gạch chéo. Có hãng dùng chữ cái: T = trong (transparent), O = đục (opaque), ST = bán trong (semi-transparent), SO: bán đục (semi-opaque).
Riêng hãng Old Holland dùng sao (★) để ký hiệu độ trong / đục:
★★★★ đục
★★★ bán đục
★★ bán trong
★ trong
Độ trong / đục được quyết định chú yếu bởi chiết xuất của hạt bột màu, nhưng kích thước của hạt bột màu, độ tinh khiết của bột màu, tính chất của dầu tạo màng được dùng để nghiền màu, các chất phụ gia cũng có ảnh hưởng tới độ trong / đục. Nhiều màu sơn dầu có cả loại đục lẫn trong tùy theo cách sản xuất.
iv) Độ chịu sáng (lightfastness):
Trừ một số ít bột màu như đen than, hầu hết cả các màu đều biến đổi dưới tác dụng của ánh sáng. Cũng tương tự độ trong/đục, độ chịu sáng của cùng một loại bột màu có thể thay đổi phụ thuộc vào kích thước hạt bột màu, độ tinh khiết của bột màu, dầu tạo màng, các chất phụ gia, v.v.
Thang ký hiệu độ chịu sáng của các hãng có thể không đồng nhất. Các hãng sản xuất màu của Mỹ dùng American Standard Test Measure (ASTM, tức Thang thử theo chuẩn của Mỹ) từ I , II, III, IV, và V tương đương với xuất sắc, tốt, khá, trung bình, và kém. Nhiều hãng theo hệ thống Anh dùng Blue Wool Standard (BS, tức phép thử độ chịu sáng bằng các băng len màu lam), còn được gọi là mức ISO (International Standard Organisation = Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế). Theo BS hay mức ISO [5]:
7, 8: (I, Xuất sắc) Màu không thay đổi trong vòng ít nhất 100 năm trong điều kiện bảo tàng
6: (II, Tốt) Màu không đổi trong vòng 50 – 100 năm (tương đương 3 sao, hay 2 dấu cộng)
4, 5: (IV, Trung bình – III, Khá) Màu không đổi trong vòng 15 – 20 năm (tương đương 2 sao, hay 1 dấu cộng)
2, 3: (V, Kém) Màu đổi trong vòng 2 – 15 năm (tương đương 1 sao)
1: (Rất kém) Màu bạc trong vòng 2 năm
Hãng Winsor & Newton còn có thêm xếp hạng độ bất biến (permanence) tức độ bền của màu dưới tác dụng của ánh sáng, hoá chất, nhiệt độ, độ ẩm và các ảnh hưởng khác từ môi trường. Độ bền có các hạng AA: cực bền, A: bền, B: độ bền trung bình, C: không bền [6].
Hãng Holbein dùng hoa thị (*) trên tube màu sơn dầu để ký hiệu độ bền, theo đó [7]:
**** Tuyệt đối bền vững
*** Bền vững
** Tương đối bền vững
* Dễ biến đổi
Hãng Royal Talens dùng dấu cộng để ký hiệu độ chịu sáng (+) [8]:
+++ chịu sáng ít nhất 100 năm trong điều kiện bảo tàng
++ chịu sáng ít nhất 25 – 100 năm trong điều kiện bảo tàng
+ chịu sáng ít nhất 10 – 25 năm trong điều kiện bảo tàng
º chịu sáng ít nhất 0 – 10 năm trong điều kiện bảo tàng
Còn hãng Matsuda lại dùng sao để ký hiệu độ chịu sáng (★), tương tự như dấu cộng của Royal Talens:
★★★ = +++
★★ = ++
★ = +
kết hợp với 2 mức bền và tương đối bền [9].
Cần lưu ý rằng các mức nêu trên chỉ chính xác một cách tương đối nhằm định hướng cho hoạ sĩ.
Độ chịu sáng và sự bền vững của màu sắc trên một bức sơn dầu còn có thể thay đổi phụ thuộc kỹ thuật vẽ của hoạ sĩ.
Một bí quyết để tăng độ chịu sáng của sơn dầu là pha nhựa cây (như dammar, Venetian turpentine) vào dung dịch pha màu. Nhựa cây tăng độ bảo vệ cho hạt bột màu. Mực in phai màu nhanh hơn sơn dầu vì mực in không được nhựa hay dầu khô che chở khỏi tác dụng trực tiếp của ánh sáng, lại còn chịu phản xạ mạnh từ bề mặt giấy trắng. Cũng vì lý do này, hoạ sĩ sơn dầu nên thận trọng khi dùng trắng titanium, bởi độ phản quang rất mạnh của trắng titanium đẩy nhanh qua trình bạc màu của các màu khác hòa với nó. Tuy nhiên bản thân một số nhựa cây cũng tối đi theo thời gian nên nếu thêm quá nhiều nhựa cây sẽ gây tối màu chưa kể nứt vỡ. Về mặt này, nhựa acrylic (polymer) trong dung dịch pha màu có ưu thế hơn nhựa cây truyền thống.
Ngược lại, các màu đất như vàng đất (ochre), nâu đất (umber), nâu Sienna, Mars, đỏ Venetian, lục đất v.v. chứa oxide sắt (Fe2O3) giúp làm tăng độ chịu sáng của các hạt màu hữu cơ vì oxide sắt là chất hấp thụ tia cực tím (UV).
Phải chăng đó cũng là một trong những lý do khiến màu sắc của một số kiệt tác hội hoạ được vẽ bằng dung dịch có pha nhựa cây và dùng nhiều màu đất sau hàng thế kỷ vẫn rực rỡ.
v) Tên bột màu theo mã số màu quốc tế. Mã số này dùng ký hiệu viết tắt để gọi tên các loại bột màu như sau [10]:
bột đỏ = PR (pigment red),
bột da cam = PO (pigment orange),
bột vàng = PY (pigment yellow),
bột lục = PG (pigment green),
bột lam = PB (pigment blue),
bột tím = PV (pigment violet),
bột nâu = PBr (pigment brown),
bột đen = PBk (pigment black),
bột trắng = PW (pigment white),
các bột khác (từ kim loại) = PM (pigment metal) (như kim nhũ, bạc, v.v.).
Trong trường hợp màu được chế từ nguồn tự nhiên không có chỉ số màu, ví dụ như màu ultramarine từ đá lapis lazuli, đỏ carmine từ con rệp son, v.v., người ta dùng chữ N (natural) thay thế P (pigment) trong ký hiệu viết tắt.
Mỗi loại bột màu lại được đánh số, ví dụ: trắng chì: PW1, trắng kẽm: PW4, trắng titanium: PW6 v.v.
vi) Dầu tạo màng: lanh (linseed oil), thuốc phiện (poppy oil), hay rum (safflower), v.v.
vii) Số (hay chữ cái) series tương ưng với giá của từng loại bột màu được dùng. Số các cao hay chữ cái càng cuối bảng màu càng đắt [11].
viii) Tốc độ khô (tính bằng ngày).
ix) Cảnh báo màu độc hay không độc.
x) Lượng màu trong tube (ml hay Oz. tức ounce: 1 Oz. = 29.57 ml)
Các màu chất lượng cao nhất thường là các màu đơn sắc tố(mono pigment) tức được nghiền từ một loại bột màu. Các màu đơn sắc tố thực chất là các màu cơ bản trong hội hoạ bởi không có cách gì tạo ra được màu đơn sắc tố từ các sắc tố khác. Một số màu chỉ có thể được tạo ra do trộn vài loại bột màu với nhau. Theo quy tắc trừ màu, càng trộn nhiều loại bột màu, màu càng xỉn. Các màu rẻ tiền thường là pha trộn của vài bột màu rẻ tiền để mô phỏng màu đơn sắc tố đắt tiền hoặc được trộn thêm phụ gia để giảm lượng bột màu, nhờ đó có giá thành thấp hơn. Các màu đơn sắc tố cùng tên của các hãng khác nhau thường có tính chất giống nhau, ví dụ đỏ cadmium (PR108), trắng titanium (PW6). Trong khi đó các màu cùng tên từ các hãng khác nhau nhưng lại được nghiền từ hỗn hợp các bột màu khác nhau thường có tính chất khác nhau, thậm chí sắc không giống nhau, ví dụ sắc vàng Naples của mỗi hãng một khác. Lại có những màu có tên khác nhau nhưng đều được nghiền từ một loại bột màu.
Các phụ gia phổ biến để trộn với bột màu là:
i) phấn (calcium carbonate CaCO3) ,
ii) baryte (tức barium sulfate BaSO4),
iii) thạch cao (tức calcium sulphate ngậm nước CaSO4·2H2O),
iv) đất sét trắng (kaolin, Al2Si2O5(OH)4),
v) silica (SiO2),
vi) magnesium silicate.
Thông tin về phụ gia (filler, extender) và dầu tăng tốc độ khô (siccative) thường không được ghi trên tube màu. Thậm chí có hãng còn gọi tên màu là trắng chì, nhưng lại sản xuất từ sulfate chì (PbSO4), chứ không phải basic carbonate chì (2PbCO3·Pb(OH)2) [12].
Dưới đây là một số màu sơn dầu nên có trên palette của hoạ sĩ, ngoài màu trắng [13].
3) Một số màu thông dụng
Vermilion (PR106)
Vermilion được nghiền từ sulfide thủy ngân(HgS), có màu đỏ ngả da cam rực rỡ. Từvermilion có xuất xứ từ gốc Latin vermiculum, bắt nguồn từ kermes vermilio, tên một trong hai loài rệp cây có vỏ được dùng làm thuốc nhuộm đỏ [14].
Màu đỏ được chế từ quặng sulfide thủy ngân tự nhiên αHgS có tên là đỏ thần sa (cinnabar). Từ cinnabar có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp κινναβαρίτης (kinnabarites) có nghĩa là vermilion. Đỏ thần sa (hay đỏ vermilion) đã được con người sử dụng từ thời Đồ đá Mới cách đây hơn 12 ngàn năm. Đỏ thần sa đen đi theo thời gian vì αHgS chuyển hóa thành metacinnabar, βHgS, có màu đen.
Vào t.k. VIII người Tàu tìm ra cách tổng hợp sulfide thủy ngân từ thủy ngân (Hg) và lưu huỳnh (S). Tại châu Âu bột vermilion được tổng hợp từ t.k. XII.
Màu sơn dầu vermilion có độ phủ cao (đục), dễ hòa quện với dầu tạo màng, và chỉ hút khoảng 15 – 20 % dầu, và chậm khô. Vermilion nhân tạo có hạt mịn và đồng đều hơn đỏ thần sa chế từ quặng tự nhiên vì ít tạp chất, nhờ đó ít đổi mầu hơn.
Đỏ thần sa được các hoạ sĩ từ thời Phục Hưng rất ưa dùng vì ngoài độ rực rỡ, độ phủ, nó còn cho chuyển sắc rất phong phú. Vì là chất độc nên sang t.k. XX vermilion được thay thế bằng đỏ cadmium.
Ngày nay, một số hãng như Holbein vẫn sản xuất vermilion “xịn”, dùng bột màu PR106, và có tới 3 sắc: vermilion, vermilion Pháp và vermilion Trung Quốc. Có điều cả 3 đều có độ chịu sáng thấp, chỉ có 1 sao. Nhiều nhà sản xuất khác như Old Holland Classic, Rembrandt hay Lefranc dùng các bột màu khác để mô phỏng vermilion, như PR251 (Old Holland Classic), PO73 (Rembrandt), PR168 và PV9 (Lefranc) hay PR255 và PO72 (vermilion Pháp của Lefranc). Màu vermilion mô phỏng có độ chịu sáng tốt hơn, tới 3 sao.
Đỏ cadmium (PR108)
Cadmium và selenium được phát hiện vào năm 1817. Đó là hai nguyên tố tạo nên đỏ cadmium, tức cadmium sulfide (CdS) + cadmium selenide(CdSe).Việc tổng hợp được đỏ cadmium vào năm 1919 là một trong những thành tựu lớn của công nghệ ở t.k. XX. Nhưng đây là một công nghệ tốn kém và phức tạp, sử dụng nguyên liệu hiếm và phải rất tinh khiết. Vì thế đỏ cadmium là màu đỏ đắt tiền.
Đỏ cadmium trong sơn dầu là màu đục, có sắc phong phú từ da cam tới đỏ sẫm và tím.Trong vùng tia đỏ (bước sóng 630 – 670 nm), đỏ cadmium có độ phản quang cao hơn vermilion khoảng 7%, vì thế đỏ rực hơn vermilion. Trong vùng tia lục – vàng – da cam (bước sóng 550 - 630 nm) đỏ cadmium thua vermilion về độ phản quang, tới khoảng 50%. Tại bước sóng 630 nm (đỏ ngả da cam) và trong vùng sóng ngắn đỏ cadmium và vermilion có độ phản quang như nhau. Do đó đỏ cadmium ngả da cam có thể thay thế đỏ vermilion, lại chịu sáng cao và bền hơn.
Tuy cadmium là chất độc, gây mềm xương và suy thận, gây đau cột sống và khớp nghiêm trọng, nhưng bột màu đỏ cadmium, chứa cadmium seleno-sulfide, lại không bị xem là chất độc vì hàm lượng cadmium rất thấp.
Vàng cadmium (PY35)
Vàng cadmium được chế từ cadmium sulfide(CdS), có trong khoáng chất greenockite. Nhưng bột vàng cadmium được làm từ cadmium sulfide nhân tạo, được tổng hợp năm 1820, và được đưa vào sản xuất năm 1840.
Màu sơn dầu vàng và da cam cadmium đục, không độc, rất bền, chịu sáng tốt, rực rỡ và có độ nhuộm cao.
Vàng Naples (PY41)
Vàng Naples là hợp chất antimonate chì (II)Pb(SbO3)2/Pb3(Sb3O4)2, vì thế còn có tên tiếng Pháp là jaune d’antimoine (vàng ăng-ti-moan). Bột vàng antimony được dùng bắt đầu từ khoảng 3500 năm trước và được tổng hợp nhân tạo từ khoảng t.k. XVI. Vào năm 1631 màu vàng tương tự được tìm thấy trong khoáng chất từ nham thạch núi lửa Vesuvius tại Naples (Ý), vì thế mà thành tên.
Vàng Naples đục, có chuyển sắc rất phong phú từ vàng sáng nhạt, ngả lục tới ngả đỏ, chịu sáng cực tốt, được dùng trong hội hoạ từ thời Phục Hưng. Salvador Dalí gọi đó là màu vàng không khí, vì giúp tạo hiệu quả không khí trong hoà sắc vàng rất nhẹ và xốp.
Ngày nay, vì antimonate chì độc, chỉ còn rất ít nhà sản xuất chế vàng Naples “xịn” (PY41), ví dụ Michael Harding. Hầu hết vàng Naples sơn dầu trên thị trường là mô phỏng:
- Old Holland Classic chế từ chromium titanate (PBr24) hoặc vàng oxide sắt (PY42) trộn với trắng titanium (PW6) và trắng kẽm (PW4);
- Winsor & Newton: từ PBr24 trộn với trắng chì (PW1), PW6 và PW4;
- Royal Talens Rembrandt: từ chromium tintanate (PBr24), benzimidazolone (PY154) và PW6;
- Lefranc: PY42, vàng irgazin (PY129), và PW4;
- Holbein: từ PY35, PY42, và PW6
- Matsuda: từ PY35, PY42, và PW4.
Vàng Ấn Độ (NY20)
Vàng Ấn Độ có xuất xứ từ Ba Tư, được dùng tại Ấn Độ từ t.k. XV cho đến cuối t.k. XIX. Trong một bức thư gửi tới Hội Mỹ thuật London năm 1883, một người tên là T.N. Mukarji từ Calculta cho biết vàng Ấn Độ được làm từ nước tiểu của các con bò bị ép ăn lá xoài [15]. Sang t.k. XX, vàng Ấn Độ bị cấm sản xuất vì súc vật bị hành hạ, đặc biệt bò là động vật thiêng liêng tại Ấn Độ.
Ngày nay màu mang tên vàng Ấn Độ (Indian yellow) là màu mô phỏng. Ví dụ hãng Holbein làm vàng Ấn Độ từ các màu tổng hợp hữu cơ, vàng isoindolinone PY110, và vàng diazo PY128, được tổng hợp hợp chất muối diazo. Vàng Ấn Độ của Lefranc được chế từ vàng irgazin PY129 và vàng isoindoline PY139.
Vàng Ấn Độ nhân tạo có độ nhuộm cao, bán trong, và độ chịu sáng tốt.
Lam cobalt (PB28)
Lam cobalt gồm cobalt oxide và oxide nhôm, được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1802, rất bền vững, độ chịu sáng rất tốt, bán trong, không độc và rất đắt tiền. Bột lam cobalt cần rất ít dầu lanh khi được nghiền, nếu không sẽ ngả vàng. Lam cobalt còn được gọi là cadmium của các màu lạnh, vì tạo ra một phổ rộng các sắc lạng từ tím, tới lam, lục tương tự như cadmium có các sắc trong vùng màu nóng từ vàng, tới da cam và đỏ.
Trong thư gửi em trai Theo, danh hoạ Vincent Van Gogh coi lam cobalt là màu siêu phàm và để tạo ra khí quyển bao quanh vặt thể thì không có gì đẹp bằng lam cobalt.
Lam manganese (PB33)
Lam magnese là màu tổng hợp bằng trộn barium maganate với barium sulfate. Lam manganese là màu trong, độ chịu sáng cao (I – II theo ATSM), rất đẹp khi được dùng để vẽ trời xanh lộ giữa các đám mây.
Vì manganese độc, ngày nay chỉ vài hãng như Old Holland là còn chế lam manganese xịn. Các hãng khác chế lam manganese mô phỏng, ví dụ lam manganese của Winsor & Newton được chế từ chlorinated copper phthalocyanine (PG7) và copper phthalocyanine (vốn là phẩm nhuộm, PB15), trong, có độ chịu sáng cao nhất (I theo ATSM), và bền (A); hãng Holbein có màu manganese blue nova, được chế từ lam colbalt (PB28), trong và tuyệt đối bền (4 sao ****)
Năm 2009 các nhà hóa học thuộc Đại học Oregon (Mỹ) đã tình cờ phát hiện ra rằng, khi được nung tới 1200 độ C, manganese oxide chuyển từ màu đen sang màu lam rực rỡ, bền, không độc, chịu được nhiệt và acid. Theo một số nhà nghiên cứu, có lẽ đây là bột lam đẹp nhất và tốt nhất trong lịch sử.
Lam sapphire
Lam sapphire của hãng Mastuda được chế từ lam phthalocyanine (PB15). Màu lam sapphire của Lefranc chế từ lam phthalocyanine PB15:3 trộn với chlorinated copper phthalocyanine (PG7).
Lam sapphire trong, bền và có độ nhuộm cao, nếu được dùng hạn chế sẽ cho hiệu quả đẹp và quý giá. Ngược lại, lam sapphire có thể làm hòa sắc trở thành sượng hoặc rợ một khi bị lạm dụng.
Lam ultramarine
Ultramarine là bột màu khoáng chất phức tạp nhất, chứa lưu huỳnh và natrium silicate Na8-10Al6Si6O24S2-4, từng được coi là màu lam đẹp nhất từ thời cổ xưa, vốn được chế từ đá lapis lazuli – một loại đá quý đắt tiền, có nhiều tại Bamiyan (Afghanistan) – nơi bắt nguồn của hội hoạ sơn dầu từ t.k. V – VII. Thời xưa, đá lapis lazuli được xuất khẩu sang Ai Cập và châu Âu qua Venice để làm đồ trang sức và nghiền làm bột màu vẽ. Người châu Âu gọi thứ bột màu vẽ đắt tiền nhất này là màu từ viễn dương (ultramarine là từ gốc Latin, ultramarinus có nghĩa là bên ngoài, hay bên kia biển). Vì vậy, vào thời Phục Hưng và Baroque, ultramarine chỉ được dùng trong các hợp đồng vẽ tranh đắt tiền do giới giàu có đặt hàng, dùng để vẽ màu áo của Chúa Jesus và Đức Mẹ. Danh hoạ Johannes Vermeer thường pha ultramarine lapis lazuli với trắng chì, tạo nên các hòa sắc lam trất đẹp trong các kiệt tác của mình.
Từ t.k. XIX ultramarine được chế bằng phương pháp tổng hợp nhân tạo, có tên pigment là PB29. Nhà hóa học Pháp Jean-Baptiste Guimet là người đầu tiên tìm ra cách tổng hợp ultramarine vào năm 1826, có tên là màu lam Guimet, giá rẻ hơn ultramarine tự nhiên khoảng 10 lần. Lam Guimet mịn hơn, bền không kém ultramarine tự nhiên, có sắc tối hơn, và không rực rỡ bằng ultramarine từ đá lapis lazuli.
Ngày nay ultramarine tổng hợp (PB29) có hai loại, tên là ultramarine và ultramarine Pháp. Ultramarine Pháp có sắc đỏ, hạt to hơn ultramarine.
Không nên nhầm ultramarine tổng hợp với ultramarine được chế từ đá lapis lazuli.
Đen ngà voi (PBk9)
Đen ngà voi thực tế là đen xương, được chế từ đốt xương tới nhiệt độ 400 – 500° C khiến xương biến thành than. Đen ngà voi bán đục, có sắc ấm, không đen như đen than (carbon black, PBk6) vì chứa nhiều calcium phosphate, và khô nhanh hơn đen than đèn (lam black, PBk7). Đen ngà voi có chuyển sắc rất phong phú, nên thường được các bậc thầy cổ điển dùng để vẽ bóng tối.
Đen lam
Đen lam là màu bán trong, được chế bằng pha trộn ultramarine (PB29) với đen ngà voi (PBk9).
Đen lam cho màu xám rất đẹp, thường được dùng để vẽ chuyển sắc giữa sáng và tối trên cơ thể người, nếp vải. Một số hoạ sĩ dùng đen lam để vẽ bóng trên da thịt. Velasquez dùng rất ít màu, trong đó có đen ngà voi và đen lam. Hai màu này khi kết hợp với nhau cho phép tạo một phổ rộng chuyển sắc từ lạnh tới ấm [16].
Salvador Dalí khuyên dùng đen ngà voi để vẽ lót và đen lam để láng. Trong khi đó nếu láng đen ngà voi lên trên đen lam thì sẽ được màu xám bẩn. Dalí coi đó là bí mật thứ 28 trong 50 bí mật của tay nghể ma thuật của mình [17].
Các màu đất:
Các bột màu đất được chế từ đất có chứa oxide sắt (Fe2O3). Các màu đất ngày nay được tổng hợp từ oxide sắt. Dưới đây là một số màu đất thông dụng.
Sepia
Bột sepia tự nhiên (NBr9) có màu nâu tối, gần như đen, vốn được chiết từ mực của cuttlefish hay sepia – loài động vật thân mềm, trông giống con mực cỡ lớn. Bột sepia hoặc mực từ túi mực của cuttlefish từng được dùng làm mực viết từ thời cổ đại vùng Địa Trung Hải (khoảng t.k. VIII tr. CN) và được các hoạ sĩ dùng làm mực vẽ cho tới t.k. XIX.
Hoạ sĩ người Đức C.J.J. Seydelmann (1750 – 1829) được cho là người đầu tiên đã chiết được phẩm nhuộm sepia, lọc, và kết tủa chất này bằng hydrochloric acid, nhờ đó thu được sepia có nồng độ cao.
Ngày nay các màu có tên sepia đều là màu đất tổng hợp, chứa oxide sắt, vì sepia tự nhiên có độ chịu sáng kém. Sepia tổng hợp là màu đục, bán đục hoặc bán trong, có độ chịu sáng rất tốt. Hãng Holbein chế màu sepia từ nâu đất tự nhiên (NBr7) và đen ngà voi (PBk9), bán trong. Màu sepia của Rembrandt (Royal Talens) là pha trộn của 3 bột màu: oxide sắt vàng (PY42), oxide sắt đỏ (đỏ Venetian) (PR101), và đen Mars (PBk11), bán đục.
Đỏ Venetian (PR101)
Đỏ Venetian là 1 trong 6 màu đỏ đất. Năm màu còn lại là đỏ Anh, đỏ Ấn Độ, đỏ ochre, terra rosa (bole) và caput mortuum (đỏ thắm, nâu Ai Cập, hay nâu xác ướp). Đỏ Venetian từng là màu đỏ rất phổ biến vào thời Phục Hưng, khi màu này được chế từ sinopia – đất tại vùng Sinop thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Đỏ Venetian rất đục (chiết xuất 2.8, cao hơn cả trắng titanium 2.7), chịu sáng rất tốt, có chuyển sắc rất phong phú khi hòa với trắng, và đặc biệt đẹp khi được dùng để vẽ màu da, màu môi.
Vàng đất (ochre) (PY42)
Vàng đất được nghiền từ đất có silica và đất sét chứa oxide sắt ngậm nước (Fe(OH)3), có phổ màu rộng từ sắc vàng ngả đỏ xỉn tới vàng nâu ngả da cam xỉn. Vàng đất tự nhiên là một trong những màu cổ xưa nhất, được con người dùng từ cách đây 100 ngàn năm. Bột màu vàng đất được tổng hợp nhân tạo từ năm 1920, được dùng để nghiền các màu vàng đất sơn dầu ngày nay. Vàng đất không độc, đục, khô nhanh, và là một trong những màu bền nhất trong bảng màu của hoạ sĩ.
Lục đất (PG23)
Lục đất được dùng từ t.k. III tr. CN (thời Đế chế La Mã), lấy từ đất sét chứa oxide sắt, magnesium, silicate nhôm, kali. Lục đất còn được gọi là lục Verona, theo địa danh tại bắc Ý nơi có nhiều đất này. Từ thời Trung cổ lục đất được dùng để vẽ lót cho da thịt, nhằm trung hòa các màu nóng như đỏ hay hồng phủ lên trên.
Nâu Van Dyke (NBr8)
Peter Paul Rubens (1577 – 1640) thường dùng màu nâu này để vẽ lót. Học trò của ông, danh hoạ Anthony Van Dyck (hay Van Dyke) (1599 – 1641) dùng màu này để láng nền các chân dung, tạo ra hòa sắc nâu trầm lẫn xám bạc đặc trưng cho phong cách của mình, vì thế mà màu này có tên nâu Van Dyke.
Nâu Van Dyke là màu được chế từ đất chứa chủ yếu chất hữu cơ, như than nâu hoặc than bùn (NBr8).
Thành phần hóa học của nâu Van Dyke gồm oxide sắt (III) ngậm nước, oxide maganese ngậm nước và một số humic acid (do xác động thực vất phân hủy trong đất mùn tạo thành).
Nâu Van Dyke là màu bán trong, có độ chịu sáng tốt, sắc trung hòa, không nóng như nâu umber, hoặc lạnh như sepia. Nâu Van Dyke có thể bền hơn nếu được trộn với nhựa cây khi vẽ.
Trong lịch sử, nguyên liệu để chế màu này là đất vùng Cologne và Kassel (Đức) vì thế nâu Van Dyke còn có tên là màu đất Kassel (Cassel earth) hay đất Cologne (Cologne earth). Tuy nhiên, ngày nay có hãng, như Maieri, sản xuất cùng một lúc cả nâu Van Dyke (bán đục) và đất Kassel (đục), trong đó nâu Van Dyke có sắc ngả nâu khi được trộn với màu trắng, còn đất Kassel ngả xám lạnh, song trên thực tế cả hai màu này đều được chế từ nâu tối nung (burnt umber) (PBr7), đen xương (PBk9), và đen than đèn (PBk7). Vì thế sự phân biệt chất lượng giữa nâu Van Dyke và đất Kassel, như Salvador Dalí từng viết trong cuốn “50 bí quyết của tay nghề ma thuật” là một trong vài nhầm lẫn (hay lời xui dại) của Dalí trong cuốn sách đó.
Sienna
Màu sienna có sắc nâu đỏ, vốn được chế từ đất vùng Sienna (Ý), vì thế trong tiếng Ý có tên terra di Sienna (đất Sienna) hay terra rossa (đất đỏ), được các hoạ sĩ thời Phục Hưng và Baroque ưa dùng cùng với vàng ochre và umber. Bột Sienna chứa oxide sắt và khoảng 5% mangenese oxide (ô-xit măng-gan), vì thế có màu sẫm hơn vàng ochre. Bột sienna sống (PY43) khi được nung lên (thành burnt sienna, PR102) thì có màu nâu sẫm, sau khi nước bị loại ra khỏi oxide sắt.
Umber
Màu umber có sắc nâu tối, là màu tối nhất sau màu đen. Có hai giả thuyết về nguồn gốc tên màu này. Giả thuyết thứ nhất cho rằng umber có xuất xứ từ terra di ombra (tiếng Ý, có nghĩa là đất của bóng tối). Theo giả thuyết thứ hai, màu umber vốn được chế từ đất vùng Umbria (Ý), vì thế mà thành tên.
Umber gồm màu nâu tối nung (burnt umber, PBr7) và nâu tối sống (raw umber, PBr8), được tạo bởi oxide sắt ngậm nước, oxide manganese ngậm nước và oxide nhôm, Fe2O3 (· H2O) + MnO2·(n H2O) + Al2O3.
Umber là màu khô nhanh nhất trong các màu đất, vì thế thường được các hoạ sĩ, đặc biệt là vào thời Baroque như Caravaggo, Rembrandt, và Vermeer dùng để vẽ lót hoặc láng. Vì umber có độ chịu sáng và độ nhuộm cao, dùng umber quá nhiều khi vẽ lót sẽ làm tranh tối dần khi các màu như trắng chì trở nên trong hơn theo thời gian, khiến sắc tối của umber lót bên dưới lộ ra. Cũng vậy khi dùng umber để láng. Đó là một trong những lí do khiến bức “Mona Lisa” của Leonard da Vinci ngày nay hầu như chỉ còn sắc nâu. Cũng vì vậy mà Salvador Dalí khuyên không nên dùng umber. Song đó lại là một trong các lời khuyên cực đoan của Dalí.
*
Hoạ sĩ Lucian Freud (1922 – 2011), người chuyên vẽ các bức khỏa thân ngồn ngộn xác thịt, từng nói: “Đối với tôi, sơn dầu là người. Tôi muốn hắn làm việc cho tôi, như xác thịt.” Nếu bạn cũng coi màu sơn dầu như ô-sin của bạn thì cần biết rõ ô-sin trước khi mướn, bởi nếu không bạn có thể bị làm phản, như Mark Rothko bị đỏ lithol làm phản vậy.
17.12.2013
[1] M. Kimmelman, Mark Rothko’s Harvard Murals Are Irreparably Faded by Sun, New York Times, 8.8.1988; H.A.L. Standeven, The History and Manufacture of Lithol Red, a Pigment Used by Mark Rothko in his Seagram and Harvard Murals of the 1950s and 1960s, Tate Online Research Journal, 2008.
[2] Leonardo da Vinci dùng tempera vẽ bức “Bữa tối cuối cùng” (1495 – 1498) lên tường lót gesso, mastic và hắc ín. Kết quả: bức bích họa hỏng ngay sau khi hoàn thành. Ông dùng sơn dầu vẽ bức “Trận đánh ở Anghiari” (1505) trên lớp lót encaustic: Bức hoạ hỏng ngay khi đang vẽ. J.M.W. Turner, J. Reynolds, J.M. Wistler, và V. Van Gogh khét tiếng cẩu thả trong lựa chọn màu vẽ. Kết quả: Nhiều tranh của các danh họa này bạc màu rõ rệt, không thể cứu vãn nổi.
[4] Color handbook at SpecialChem
[5] M.D. Gottsegen, The Painter’s Handbook (Watson-Guptill, 2006).
[6] Xem Nguyễn Đình Đăng, Sơ lược về kỹ thuật vẽ sơn dầu, trang 23.
[8] Royal Talens, Lightfastness.
[9] Theo giải thích của đại diện hãng Matsuda.
[11] Xem Nguyễn Đình Đăng, Sơ lược về kỹ thuật vẽ sơn dầu (trang 24) và Dùng sơn dầu nhãn hiệu nào?
[12] M. Pérez et al., A critical analysis of commercial pigments.
[13] Về màu trắng, xem Nguyễn Đình Đăng, Màu trắng của sơn dầu.
[14] Tên hai loài rệp cây này là kermes và cochineal. Trong từ Hán-Việt cả hai loài khác nhau này đều được gọi rệp son hay rệp yên chi. Từ t.k. XVI người ta đã dùng bọ cochineal để làm nguyên liệu chế thuốc nhuộm đỏ vì để chế ra cùng một màu đỏ chỉ cần một số bọ cochineal bằng 1 phần 10 đến 1 phần 12 số bọ kermes.
[15] V. Finlay, Color: A natural history of the palette (Random House, New York, 2004).
[16] Harold Speed, Oil painting techniques and materials (Dover edition, 1987).
[17] Salvador Dalí, 50 secrets of magic craftsmanship (Dial Press, New York, 1948).
______________
© Nguyễn Đình Đăng, 2013 – Tác giả giữ bản quyền. Bài chuyên khảo này được viết với mục đích phổ biến kiến thức và kinh nghiệm. Bạn đọc có thể lưu giữ để sử dụng cho cá nhân mình. Mọi hình thức sử dụng khác như in ấn, sao chép lại bài viết này, dù là một phần hay toàn bộ, để phát hành trong các ấn phẩm như sách, báo chí, luận văn, hay nhằm mục đích thương mại (kể cả tại các trang thư viện điện tử trên internet mà để đọc được hay tải xuống người đọc phải trả tiền để mở tài khoản) v.v. đều vi phạm bản quyền nếu không nhận được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả.
__________________