Người họa sỹ xung kích trong kháng chiến chống Pháp

 

Tô Ngọc Vân là một nghệ sĩ có nhiều tác phẩm nổi tiếng, một nhà giáo đã có công tổ chức, lãnh đạo Trường Mỹ thuật và giảng dạy nhiều thế hệ họa sĩ kế tiếp các hoạ sĩ lớp trước.

Ông hy sinh ngày 17/6/1954 tại Ba Khe, bên kia đèo Lũng Lô lịch sử, cách đây tròn 60 năm.
Ông hy sinh ngày 17/6/1954 tại Ba Khe, bên kia đèo Lũng Lô lịch sử, cách đây tròn 60 năm.

 

Là người chiến sĩ xuất sắc trên mặt trận văn hoá nghệ thuật Việt Nam, là tấm gương sáng của các thế hệ nghệ sĩ tạo hình.

Tô Ngọc Vân sinh ngày 15/12/1906 tại làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên nhưng Hà Nội lại là nơi nuôi ông lớn để trở danh hoạ hàng đầu của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

20 tuổi, Tô Ngọc Vân thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tại đây, ông được tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới và bị cuốn hút mãnh liệt bởi phương pháp tạo hình trên chất liệu sơn dầu. Ông đã tìm thấy ở chất liệu này khả năng diễn tả trực tiếp, đầy đủ nhất những cảm xúc rạo rực, bừng cháy trước cảnh vật và con người của người nghệ sỹ.

Tốt nghiệp năm 1931, đến năm 1935, Tô Ngọc Vân đi dạy vẽ tại Campuchia. Năm 1938, ông trở về Hà Nội dạy ở Trường trung học Bưởi và đến năm 1939, là giảng viên Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Những năm 40 của thế kỷ XX, tài năng của Tô Ngọc Vân ngày thêm phát lộ, thăng hoa và nở rộ những kiệt tác sơn dầu bất hủ như Thiếu nữ bên hoa huệ, Thiếu nữ bên hoa sen, Buổi trưa... Và đặc biệt, bức tranh được mọi người biết đến nhiều nhất là bức sơn dầu Thiếu nữ bên hoa huệ. Bức tranh vẽ một người thiếu nữ ngồi bên những đóa hoa huệ ngát thơm trong chiếc áo dài trắng thuỷ tinh đã ám ảnh nhân gian bởi vẻ đẹp thanh thoát và dịu dàng.

 

Thiếu nữ bên hoa huệ.

Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám đã làm thay đổi tâm thức và cuộc sống của toàn dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Nhiều họa sĩ, nhà điêu khắc tốt nghiệp hoặc đang học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, tham gia cách mạng bằng chính nghề nghiệp của mình. Họa sĩ Tô Ngọc Vân đã vẽ hai bức tranh cổ động khổ lớn: Phá xiềng và Việt Nam giải phóng. Ông được Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trao cho trách nhiệm lập lại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, trụ sở trường được đặt tại phố Lò Đúc, Hà Nội. Khóa đầu tiên khai giảng ngày 15/11/1945, trong điều kiện trường sở bị thiếu thốn nhưng ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cùng với việc mở trường, ông tham gia sáng tác và trưng bày tác phẩm trong những triển lãm mỹ thuật đầu tiên của Cách mạng.

Đầu năm 1946 được Hội văn hóa Cứu quốc giới thiệu, ông cùng các họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim vào Bắc Bộ phủ vẽ tranh và nặn tượng Bác. Bức tranh sơn dầu Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ đã được trưng bày tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội. Đó là bức tranh chân dung sơn dầu đẹp nhất của Tô Ngọc Vân sáng tác về lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Thực dân Pháp trở lại xâm chiếm nước ta, danh họa Tô Ngọc Vân đã cùng nhiều văn nghệ sĩ lên chiến khu Việt Bắc. Năm 1948, ông làm trưởng đoàn Văn hóa kháng chiến, sau đó làm giám đốc xưởng họa sơn mài Việt Nam. Tại Đại hội văn hóa toàn quốc (1948), ông được bầu làm ủy viên Ban chuyên ngành Mỹ thuật. Ông luôn tranh thủ thời gian ký họa cuộc sống con người, cảnh vật của núi rừng Việt Bắc.

Thời kỳ này ông sáng tác nhiều tranh, đáng chú ý là các bức khắc gỗ: Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ, Hà Nội vùng đứng lên (1948), Bác Hồ với thiếu nhi (1951) và các bức tranh sơn mài Thiếu nữ, Khi giặc đi qua, Nghỉ chân bên đồi, Nữ cứu thương (1948), Chạy giặc trong rừng (1949). Loạt tranh ký họa về Tây Bắc bằng chì, bút sắt, màu nước về bộ đội, dân công, nông dân, có thể kể tới các bức Hai chiến sĩ, Chân dung hai bà lão nông dân, Bộ đội trong hang, Ruộng bậc thang, Một bản ở Tây Bắc (1951). Loạt ký họa màu nước, chì than về nông dân vào năm 1953 tiêu biểu như: Ông lão cầm đuốc đi học, Bủ đường đi học, Tôi có ý kiến, Con trâu quả thực;.... Loạt ký họa về bộ đội từ năm 1949 đến 1954 bằng chất liệu chì, màu nước, bút sắt, bột màu, sơn dầu, tiêu biểu như Hai chiến sĩ, Sinh hoạt trong hang, Xưởng quân giới... Cùng với nhiều họa sĩ khác, các hoạt động đi thực tế sáng tác, triển lãm của họ đã làm cho Việt Bắc không những là thủ đô kháng chiến mà còn là thủ đô của mỹ thuật trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Ông lão cầm đuốc đi học.

Cuối năm 1949, họa sĩ Tô Ngọc Vân được giao làm Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam tại xóm Chòi, Yên Dã thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Cùng giảng dạy tại nhà trường có các danh họa Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc. Lớp sinh viên khóa kháng chiến với hơn 20 người được sự dạy dỗ trực tiếp của Tô Ngọc Vân và các họa sĩ tài danh khác đã trở thành những họa sĩ tên tuổi của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam, có thể kể tới các họa sĩ Trần Lưu Hậu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Đào Đức, Nguyễn Thế Vị, Mai Long, Lê Huy Hòa, Lê Lam... Ông thường nhắc nhở học sinh học kết hợp với hành và bản thân ông cũng gương mẫu thực hiện.

Năm 1952, ông nhận được thư khen của Bác Hồ và năm 1954 được Bác Hồ tặng áo kỷ niệm (hiện lưu giữ ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam).

Tháng 4-1954, ông được lệnh lên đường đi Điện Biên Phủ. Trên đường ra trận, ông đã vẽ nhiều ký họa về bộ đội, dân công, phong cảnh và con người các dân tộc Tây Bắc: Giáo viên người Thái, Cô gái dân tộc Mèo, Ba cô gái Thái, Cho ngựa ăn. Ngày 17/6/1954, ông đã hy sinh tại cây số 41 Ba Khe, khi ông đã vượt qua đèo Lũng Lô. Chiếc cặp vẽ mà ông đem theo đi chiến dịch đã có nhiều ký họa dọc đường như: Trú quân, Hành quân qua suối, Lên đèo, Qua đèo Lũng Lô, Chuẩn bị lên đường. Đặc biệt trong đó có bức ký họa chì Đèo Lũng Lô được ghi ở góc ngày 15/6/1954, có thể là bức tranh cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông. Danh họa Tô Ngọc Vân đã hy sinh trong khi đang sáng tác tại chiến trường, khi tài năng đang nở rộ.

Với những cống hiến to lớn cho nền mỹ thuật nước nhà, họa sỹ Tô Ngọc Vân được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.