Đầu năm 1997, khi mới chuyển về công tác tại Đài Truyền hình Huế, tôi có ý định làm một phim tài liệu nghệ thuật về hoạ sĩ Bửu Chỉ. Sau nhiều lần từ chối, họa sĩ Bửu Chỉ đã đồng ý giúp tôi việc này. Ngày 25-2-97, tôi gửi anh 7 câu hỏi nhằm có thêm tư liệu để lên đề cương kịch bản phim. Hơn 20 ngày sau, anh chuyển cho tôi một thếp giấy vở học trò gồm 13 tờ do tự tay anh viết xong, đề ngày 16-3-1997. Vì nhiều lý do, phim chưa làm được, tôi gửi trả anh các tư liệu đã mượn, riêng bài trả lời phỏng vấn, anh nói tôi hãy giữ làm kỷ niệm về một dự định bất thành. Với tất cả tấm lòng thương quý và kính mến một người Anh, xin được giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của Anh mà tôi xem như là những trang di cảo về CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT. ĐẠI DƯƠNG * Anh đến với hội hoạ từ khi nào?Tình cờ hay bởi một lý do nào khác?Quá trình tự học để trở thành một hoạ sĩ? *Hoạ sĩ Bửu Chỉ: Thật ra tôi đã ham mê hội họa từ thời còn nhỏ. Từ 5,6 tuổi tôi đã hí hoáy vẽ, và vẽ rất nhiều. Đó là tranh thiếu nhi. Nhưng để trở thành một nghệ sĩ như hôm nay thì là một điều khác. Điều này đòi hỏi một niềm đam mê thực sự, một sự làm việc có phương pháp và bền bỉ. Và một cái gì đó có tính cách "thiên bẩm"; cái tính thiên bẩm này không chỉ nói riêng về tài năng, mà là mình cảm thấy từ trong sâu xa của bản thân mình rằng hội hoạ sẽ chính là cuộc đời mình, sẽ là cái ngôn ngữ để mình bày tỏ và sống với mọi người. Như thế tôi thật sự đi vào hội hoạ, dấn thân vào cái nghiệp của mình kể từ khi kết thúc cái tuổi thiếu nhi, đó là năm 16 tuổi. Và tôi đã tự học hội hoạ. Tự học hội họa, đây là cả một thử thách đối với chính bản thân tôi. Tự học khó, và gặp rất nhiều trở ngại. Nhưng như tôi đã nói, điều có thể giúp mình đi đến cùng là lòng ham mê nghệ thuật. Lòng ham mê này không chỉ được hiểu là thích mà thôi, mà nó bao hàm một nung nấu, đun đẩy mà trời dành cho mình. Thầy của người tự học là cuộc sống, là bạn bè, là những người đi trước. Cái chữ "thầy" này có ý nghĩa tự do hơn là ông thầy ở trường. Vì thế mà tôi không thích trường ốc. Theo quan niệm của tôi "thầy" chỉ giúp cho mình có kỹ thuật ban đầu; nhưng thầy không thể giúp mình làm nghệ thuật. Làm nghệ thuật đòi hỏi một cái nhìn, một quan niệm riêng về ngôn ngữ tạo hình ở mỗi người. Nghệ thuật cốt ở sự sáng tạo độc đáo, vì thế không thể hình dung từ một khuôn mẫu có trước. Đào tạo từ trường ốc cũng tốt, nhưng khi ra đời có lẽ phải mất nhiều thời gian để tháo gỡ cái khuôn mẫu này để hình thành cái của chính mình. * Những mốc chính trong cuộc đời làm nghệ thuật? * Những trường phái hội hoạ trên thế giới, các hoạ sĩ Việt Nam tiên phong đầu thế kỷ 20 đã có ảnh hưởng gì đến quan niệm và sáng tác của anh? Anh tự cho mình thuộc trường phái hoặc xu hướng nào? Và cũng từ suy nghĩ như vậy tôi có thể nói rằng tôi có riêng xu hướng nghệ thuật của mình. Xu hướng hay trường phái là quan niệm là chủ trương của một hoạ sĩ, hoặc một nhóm họa sĩ này đối với một hoặc một nhóm hoạ sĩ khác trong vấn đề sáng tạo. Khát vọng sáng tạo là khát vọng hướng về chân, thiện, mỹ; mà đã nói khát vọng là không bao giờ có cái cùng cả. Nếu có cái cùng thì nghệ thuật sẽ chết. * Quan niệm của anh về hội hoạ và thiên chức của người hoạ sĩ (nói riêng) và người nghệ sĩ (nói chung)? * Là một họa sĩ sống được bằng tiền bán tranh, cảm nhận và suy nghĩ của anh về thị trường hiện nay? Trong những năm 80 trở lại đây, vấn đề giao lưu với người nước ngoài mở rộng, thị trường tranh trong nước mở rộng. Không riêng gì tôi mà một số hoạ sĩ VN khác cũng bán được tranh và sống bằng tiền bán tranh. Điều này rất đáng mừng mà cũng đáng suy nghĩ: sự kiện này sẽ kích thích việc sáng tạo tranh mà đồng thời cũng kích thích sự thương mại hoá tranh. Điều này đòi hỏi người nghệ sĩ phải đầy đủ bản lĩnh. Mình làm nghệ thuật mà, người ta mua mới quý. Bán tranh hay cho một người có gout nghệ thuật tốt thú vị hơn cho một kẻ có gout tồi. Vì vậy cần phải biết bán tranh cho ai và không bán cho ai; còn làm nghệ thuật trước hết là làm cho mình. Nguy hiểm nhất là chạy theo thị hiếu vì mình sẽ đánh mất chính mình. Đó là sự vong thân của nghệ thuật. Còn đối với người trong nước, sau 75 nhiều năm, người ta mua tranh e dè; nhưng hiện nay số này đã trở nên nhiều hơn, và có cả những nhà sưu tập tranh dần dần có tiếng tăm. Điều này rất đáng mừng và đáng cổ vũ. Vấn đề quan trọng là cần tập tành để trở thành một thói quen tốt trong việc thưởng ngoạn và mua tranh sưu tập trong toàn thể đại chúng. Ngoài ra, mặt bằng giá tranh trong nước thấp hơn ở nước ngoài một phần lớn là do giá trị của đồng tiền ở trong nước thấp hơn so với ở ngoài nước. Do đó tranh có khuynh hướng ra nước ngoài hơn là ở lại trong nước. Và trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa thì anh nghệ sĩ vẫn chịu nhiều thiệt thòi, vì giá bán lại ở nước ngoài còn cao hơn nhiều lần so với giá mua trong nước. Thêm nữa, tôi nghĩ là nước ta cần phải có nhiều chủ galerie có tầm cỡ, nghĩa là có tầm nhìn, có sức năng động, dám nghĩ dám làm, để tranh thương với galerie ngoài nước. Có như thế mới mong khả dĩ bình ổn được trong một mức độ nào đó cái mặt bằng giá cả trong và ngoài nước. Và nhất là giữ lại được cho tài sản quốc gia những tác phẩm của hoạ sĩ Việt Nam có giá trị. Và một vấn đề khác có tầm quan trọng nền tảng cần phải nói ra ở đây là ta cần có những galerie đúng nghĩa có tầm cỡ của ta để giới thiệu, phổ biến vào thế giới một cách sâu rộng nền mỹ thuật của Việt Nam theo sự chủ động của chính mình. Nghệ thuật Việt Nam hiện đã được thế giới dần dần biết đến và yêu thích, trân trọng. Nó có một vai trò, một ý nghĩa, một chỗ đứng riêng trong nền nghệ thuật thế giới. Ví dụ như ngay tại trung tâm Hồng Kông, Galerie Lã Vọng (chủ nhân là người nước ngoài) đã kinh doanh chuyên về mỹ thuật Việt Nam, mà đã đứng vững qua nhiều năm bên cạnh những Galerie tiếng tăm khác có từ lâu đời. * Nếu lại được sống một cuộc đời khác, nghĩa là anh vừa được sinh ra và ở thời điểm này đang tuổi mười tám đôi mươi, anh sẽ học Luật? Cầm bút vẽ? Hay một lựa chọn nào khác? * Một chút tự bạch khi đã quá nửa đời nhìn lại? ĐẠI DƯƠNG thực hiện |